Học thuyết gắn bó, các giai đoạn gắn bó và các kiểu gắn bó ở trẻ
Học thuyết gắn bó nghiên cứu về mối quan hệ giữa trẻ em và cha mẹ trong những năm tháng đầu đời, đặc biệt là với mẹ hay người chăm sóc chính, và tác động của mối quan hệ này đến sự phát triển của trẻ. John Bowlby, người được coi là “cha đẻ” của học thuyết gắn bó, cho rằng mối quan hệ gắn bó giữa trẻ và cha mẹ bắt đầu từ khi trẻ mới ra đời và tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong suốt cuộc đời của trẻ.
Học thuyết gắn bó bao gồm hai khái niệm chính:
- Các giai đoạn gắn bó
- Các kiểu gắn bó
Chúng ta sẽ cùng đi sâu vào tìm hiểu hai khái niệm này để hiểu rõ hơn về học thuyết gắn bó.
1.Các giai đoạn gắn bó
Sự phát triển của gắn bó theo sau hàng loạt giai đoạn có thể xác định trong 3 năm đầu đời, trong đó trẻ sơ sinh có khả năng nhận biết và đáp ứng với người khác.
- Khoảng 2 tuần tuổi, trẻ đã phát triển sự ưa thích giọng nói của con người hơn các âm thanh khác. Vào khoảng 4 tuần tuổi, trẻ đã có xu hướng yêu thích giọng nói của mẹ hơn tất cả.
- Vào tháng thứ 2, giao tiếp qua ánh mắt được thiết lập và dấu hiệu ban đầu về gắn bó xuất hiện khi trẻ hướng mắt về phía mẹ hay người chăm sóc để báo hiệu nhu cầu của trẻ.
- Trong giai đoạn tiếp theo, từ 3-6 tháng tuổi, trẻ bắt đầu thể hiện và niềm vui thích trong tương tác với con người thông qua nụ cười xã hội (Social smile). Trên thực tế, người lớn sử dụng nhiều trò hài hước để gây ra nụ cười như vậy, ví dụ như trò ú òa. Điều này cho thấy hành vi này có giá trị như thế nào. Nó không chỉ đảm bảo sự gắn bó mạnh mẽ đã được hình thành mà còn là sự tương tác hai chiều.
- Trong giai đoạn từ 6-9 tháng tuổi, trẻ em phát triển khả năng phân biệt giữa người chăm sóc trẻ và những người lớn khác. Trẻ có thể nhận ra sự khác biệt và dành sự quan tâm đặc biệt cho người chăm sóc bằng cách bộc lộ “nụ cười ưu ái”. Đây là một dấu hiệu cho thấy trẻ đã nhận ra vai trò và giá trị độc nhất của người chăm sóc trong cuộc sống của mình.
Ngoài ra, hai vấn đề lo âu phổ biến trong giai đoạn này là lo âu chia cách (Separation anxiety) và lo âu với người lạ (Stranger anxiety). Lo âu chia cách xuất hiện khi trẻ bắt đầu có ý thức về việc bị tách rời với người chăm sóc. Trẻ có thể tỏ ra không an toàn, buồn bã hoặc gắt gỏng khi xa rời người quen thuộc. Lo âu với người lạ xảy ra khi trẻ không quen biết hoặc không tin tưởng vào những người mới. Trong các tình huống này, trẻ có xu hướng gần gũi hơn với và dựa vào người chăm sóc để cảm thấy an toàn và bảo vệ.
- Từ 12-24 tháng tuổi, trẻ em phát triển khả năng bò và bước đi, cho phép họ tìm kiếm gần gũi với người chăm sóc. Hành vi tìm kiếm gần gũi (Proximity-seeking) là một cách để trẻ tự điều chỉnh sự gần gũi hoặc khoảng cách xa đối với người chăm sóc.
Trong giai đoạn này, trẻ có xu hướng quay lại phía người chăm sóc khi cảm thấy không an toàn hoặc không thoải mái. Trẻ mong muốn được sự an ủi, giúp đỡ và nạp thêm năng lượng cảm xúc từ người chăm sóc.
- Trong giai đoạn khoảng 3 tuổi, trẻ bắt đầu mở rộng khái niệm về gắn bó và tìm kiếm sự kết nối với những người xung quanh. Mục tiêu của gắn bó không chỉ giới hạn trong việc cung cấp an toàn và thoải mái cho trẻ, mà còn là thiết lập một mối quan hệ đối tác có tính chất hai chiều.
Trong giai đoạn này, trẻ muốn tham gia vào các hoạt động chung và có mong muốn được chia sẻ ý tưởng, ý kiến và cảm xúc của mình. Gắn bó không chỉ xoay quanh nhu cầu cá nhân của trẻ, mà còn liên quan đến việc hiểu và phản ứng với nhu cầu và cảm xúc của người khác.
2. Các kiểu gắn bó
- Gắn bó an toàn:
Trẻ có gắn bó an toàn cảm thấy thoải mái và tự tin trong việc khám phá môi trường xung quanh khi có sự hiện diện của người chăm sóc. Trẻ cũng có khả năng tương tác và giao tiếp tốt với người lạ.
Tuy nhiên, khi người chăm sóc không có mặt, trẻ có thể cảm thấy không thoải mái và giới hạn lại việc khám phá môi trường. Đây là dấu hiệu cho thấy sự phụ thuộc vào người chăm sóc để cảm nhận an toàn.
Khi gặp lại cha mẹ hoặc người chăm sóc, trẻ đón chào tích cực và mong muốn tiếp xúc với cha mẹ. Hành vi này cho thấy trẻ yêu quý và tin tưởng vào người chăm sóc. Sau khi được tái nạp năng lượng cảm xúc từ sự dỗ dành của người chăm sóc, trẻ có thể quay lại hoạt động khám phá môi trường như ban đầu. Trẻ có gắn bó an toàn khi cha mẹ có sự nhạy bén với nhu cầu của trẻ. Đặc biệt là cha mẹ đọc được các tín hiệu của trẻ một cách chính xác và đáp ứng một cách nhanh chóng, phù hợp và với một cảm xúc tích cực.
Gắn bó an toàn là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của trẻ nhỏ. Nó giúp xây dựng lòng tin, sự tự tin và khám phá môi trường xung quanh một cách tự do.
- Gắn bó tránh né không an toàn:
Khi trẻ thể hiện sự không quan tâm, không muốn tiếp xúc hoặc tránh xa người chăm sóc, điều này có thể là dấu hiệu của một mô hình gắn bó tránh né không an toàn.
Trẻ có gắn bó tránh né không an toàn có thể đã trải qua những sự kiện không mấy tích cực trong quá khứ, ví dụ như bị bỏ rơi, lạm dụng hoặc thiếu sự chăm sóc đáng kể từ người chăm sóc. Do đó, để tự bảo vệ và giảm căng thẳng tâm lý, trẻ phát triển cách ứng phó bằng cách tỏ ra xa lánh và không tin tưởng vào người khác.
Trẻ có gắn bó tránh né không an toàn khi người chăm sóc có sự xa cách và thiếu vắng sự dỗ dành đi kèm với việc người chăm sóc khó chịu và giận dữ trong khi gần gũi với trẻ.
- Gắn bó chống đối không an toàn:
Trẻ có kiểu gắn bó này có thể bám vào mẹ và không muốn rời xa, nhưng đồng thời cũng có thể tỏ ra giận dữ và từ chối sự chăm sóc của mẹ. Trong tình huống này, trẻ khó lòng khám phá và tương tác với người lạ hoặc trong môi trường mới.
Đây là một dạng gắn bó không an toàn trong quan hệ cha mẹ – con cái, nơi trẻ cảm thấy lo lắng về việc được yêu thương và chăm sóc. Trong các tình huống này, trẻ có xu hướng phản kháng hoặc từ chối sự tiếp xúc với người chăm sóc, nhưng đồng thời lại mong muốn sự gần gũi và an ủi từ cha mẹ.
Trẻ có gắn bó chống đối không an toàn khi người chăm sóc đôi khi gần gũi quá mức và lúc khác thì lại thờ ơ hay khó chịu với trẻ, sự gắn bó không ổn định và nhất quán.
- Gắn bó rối loạn tổ chức không an toàn:
Trẻ có gắn bó rối loạn tổ chức có cách thức gắn bó không tương hợp hay khác lạ. Những trẻ này có biểu lộ ngạc nhiên hay đi lang thang xung quanh mà không có mục đích hay sợ hãi trong khi có sự hiện diện của người chăm sóc, không biết là trẻ tiếp cận với người chăm sóc để được dễ chịu hay tránh né để được an toàn. Trẻ tìm kiếm sự gần gũi bằng cách thức khác là như là tiếp cận với người chăm sóc ở phía sau hay bất thình lình lạnh lùng và nhìn chằm chằm vào khoảng không. Không giống như trẻ nhỏ có gắn bó né tránh và chống đối, những trẻ này dường như không phát triển một chiến lược ổn định để tiếp xúc với người chăm sóc. Khoảng 5% trẻ trong dân số bình thường có biểu lộ kiểu gắn bó này.
Nguồn tham khảo:
Giang, P.T.X. (nd). Học thuyết của John Bowlby. Tâm lý học thần kinh
Trả lời